Bạn có muốn phản ứng với tin nhắn này? Vui lòng đăng ký diễn đàn trong một vài cú nhấp chuột hoặc đăng nhập để tiếp tục.
Tìm kiếm
 
 

Display results as :
 


Rechercher Advanced Search

Latest topics
» Mong ho tro cua cac ban lop QT1 K12
Ý nghĩa các nhân vật trong Tây Du Kí I_icon_minitimeMon Mar 07, 2011 11:37 pm by greenstarvn

» phần mềm quản lý kho giá rẻ nè
Ý nghĩa các nhân vật trong Tây Du Kí I_icon_minitimeTue Dec 07, 2010 2:55 pm by hannad

» Thiết kế website chuyên nghiệp giá rẻ nè
Ý nghĩa các nhân vật trong Tây Du Kí I_icon_minitimeTue Dec 07, 2010 2:53 pm by hannad

» Ke toan quan tri
Ý nghĩa các nhân vật trong Tây Du Kí I_icon_minitimeFri Dec 04, 2009 1:40 am by phuonganh0704

» Trao sách tận tay - Giá rẻ
Ý nghĩa các nhân vật trong Tây Du Kí I_icon_minitimeSat Nov 07, 2009 12:30 am by Admin

» Xin chào các bạn, mình có chút góp ý
Ý nghĩa các nhân vật trong Tây Du Kí I_icon_minitimeThu Oct 08, 2009 10:42 pm by binhvuxuan

» Lịch thi Môn Kế Toán Quản Trị nè bà con!
Ý nghĩa các nhân vật trong Tây Du Kí I_icon_minitimeWed Sep 30, 2009 11:27 pm by nguyenthachbao

» Tài liệu tham khảo môn "Hành vi tổ chức"
Ý nghĩa các nhân vật trong Tây Du Kí I_icon_minitimeWed Sep 30, 2009 11:25 pm by giapvanvy

» câu hỏi ôn tập kt vĩ mô- mình ko post file được(kô thấy chỗ nào cho post)
Ý nghĩa các nhân vật trong Tây Du Kí I_icon_minitimeSat Sep 26, 2009 9:00 am by Thu Linh bo

Thống Kê
Hiện có 1 người đang truy cập Diễn Đàn, gồm: 0 Thành viên, 0 Thành viên ẩn danh và 1 Khách viếng thăm

Không

[ View the whole list ]


Số người truy cập cùng lúc nhiều nhất là 21 người, vào ngày Thu Dec 19, 2013 10:45 pm
Statistics
Diễn Đàn hiện có 102 thành viên
Chúng ta cùng chào mừng thành viên mới đăng ký: uluamak

Tổng số bài viết đã gửi vào diễn đàn là 1054 in 302 subjects

Ý nghĩa các nhân vật trong Tây Du Kí

Go down

Ý nghĩa các nhân vật trong Tây Du Kí Empty Ý nghĩa các nhân vật trong Tây Du Kí

Bài gửi by hiepsi Sat Apr 25, 2009 3:09 pm

Về Ðường Tăng

Ðường Tăng là tiếng nói của hạnh nguyện giải thoát, của bi nguyện độ sinh, và sau hết là tiếng nói của cho tim trần thế.

Tiếng nói ấy là linh hồn của nghĩa sống, như Ðường Tăng là người dẫn
đầu đoàn thỉnh kinh. Ðây là không là tiếng nói của trí tuệ, của khối
óc, nên thường thiếu khả năng phân biệt chánh tà, hư thực, thường bị
mắc vào cạm bẩy của ác ma. Tiếng nói của con tim ấy cần được soi sáng
bởi tiếng nói thiền định và giới đức như là Ðường Tăng cần đến ba môn
đồ phò tá (sẽ bàn tiếp)...


Về Tôn Ngộ Không (Tôn Hành Giả)

* Tôn Ngộ Không là biểu trưng cho Chánh kiến và Chánh tư duy (Thánh tuệ
uẩn của mỗi hành giả, là trí tuệ Vô ngã thấy rõ mọi hiện hữu là Vô ngã,
vô thường và dẫn đến tan rã, khổ đau. Trí tuệ ấy khác với trí tuệ sinh
diệt. Nó là vô sinh nên tác giả Ngô Thừa Ân giới thiệu Mỹ hầu vương
được sinh ra từ trứng đá, kết tinh của tú khí trời đất. Trí tuệ ấy tự
biết tìm đường đi ra khỏi sinh tử như Mỹ hầu vương biết tìm đường đến
với đại đệ tử của Ðức Phật (Tôn giả Tu Bồ Ðề) để học đạo bất sinh bất
diệt
.

* Tôn giả Tu Bồ Ðề là đệ nhất ly dục, ly ái (còn có nghĩa là đệ nhất rời chấp thủ hết thảy các ngã
tướng) trong hàng đệ tử của Ðức Phật - theo Kinh Kim Cang Bát Nhã - Ðạo
và Mỹ hầu vương được truyền dạy thấy rõ Vô ngã tướng (hay không tướng)
của vạn hữu và tự tâm rời xa mọi tham ái. Nắm được sở đắc ấy thì liền
tự tại, ở ngoài mọi khổ đau. Sự kiện tự tại này đã được Ngô Thừa Ân
biểu hiện qua 72 phép thần thông biến hóa của pháp môn Ðịa-sát.

Trí tuệ này là cao nhất để đi đến trí tuệ giải thoát sau cùng, không
còn trí tuệ nào khác cao hơn, nên được gọi là Vô sư trí. Vì thế Tôn giả
Tu Bồ Ðề cấm Tôn Ngộ Không tiết lộ danh tánh của Thầy dạy đạo cho Tôn
Ngộ Không.
Ðạt được trí tuệ xa lìa khổ đau ấy, Mỹ hầu vương nhận được pháp danh Tôn Ngộ Không. chữ Tôn theo lời cắt nghĩa của Tôn giả Tu Bồ Ðề, nếu xóa bộ khuyển bên cạnh thì
thành chử Tử (con) và chữ Hệ (trẻ con). Như thế trí tuệ giải thoát sau
cùng, mà chưa là trí tuệ giải thoát sau cùng, trí tuệ này cần được tu
tập thêm Giới và Ðịnh.
[

* Trí tuệ, tự thân nó là động, tháo động, vì thế Tôn Ngộ Không mang thân tướng
giống khỉ. Cái động của trí tuệ cần được thuần hóa và nuôi dưỡng bằng
định tâm và sự thực hành giới hạnh. Ðịnh tâm sẽ rửa sạch cái động của
ý, giới đức sẽ rửa sạch cái động của trí tuệ cần được thuần hóa và nuôi
dưỡng bằng định tâm và sự thực hành giới hạnh. Ðịnh tâm sẽ rửa sạch cái
động của ý, giới đức sẽ rửa sạch cái động của thân, khẩu. Chưa đủ, có
những thời điểm manh động của trí cần phải nhờ đến đại định để chế ngự
như là Tôn Ngộ Không cần phải đội trên đầu chiếc vòng “Khẩn cô nhi”
(còn gọi là vòng “Kim cô” hay vòng “định tâm”) và cần được chế ngự bởi
“định tâm chú” (hay chú Khẩn cô nhi) của Bồ Tát Quán Thế Âm.

* Khi mà trí tuệ ấy chưa được Giới, Ðịnh chế ngự và nuôi dưỡng thì nó
sẽ bị Năm uẩn (hay vũ trụ, cuộc đời) khống chế với vô lượng phiền não.
Ðây là hình ảnh mà Tôn Ngộ Không bị Ngũ hành sơn chụp lên mình năm trăm
năm mà không trăn trở được. Ðó là cái họa đại náo Thiên cung của Tề
Thiên Ðại Thánh, do vì Ðại Thánh thấy rõ cái hư, cái rởm (và cả dỏm
nữa) của trên trời và dưới thế, không chịu được mà đại náo, đập phá,
đạp đổ.


* Ðường giải thoát chưa dừng lại ở đây. Ngộ Không (hay trí tuệ) cần tiếp tục vào đại định và
lòng đại bi, cần phải tu tập nhiều lần nữa.n ghĩa là Ngộ Không phải
tinh tấn lên đường thực hành giải thoát. Bấy giờ Ngộ Không có thêm một
pháp hiệu nữa là Hành Giả.


*Trí tuệ của Tôn Hành Giả (nặng phần tự độ) cần phải được tu tập cùng với bi
tâm độ sinh (phần độ tha của Ðường Tăng) thì mới thiện xảo, mới tiến
gần giải thoát tối hậu. Cũng thế, bi tâm cần được trí tuệ Vô ngã dẫn
đường, nếu không thì dễ lạc đạo. Tác giả Ngô Thừa Ân diễn đạt điểm giáo
lý này qua sự xây dựng hai nhân vật Ðường Tăng và Tôn Hành Giả. Khi nào
mà Ðường Tăng không nghe Tôn Hành Giả thì phái đoàn Tây du trở nên buồn
bã ảm đạm như một phái đoàn đưa ma (như cảnh quỷ Hoàng Bào hãm hại
Ðường Tăng sau khi Ngộ Không bị đuổi về núi Hoa Quả).


* Người tu giải thoát rời xa trí tuệ một bước thì bị họa liền một bước.
Cần phải thường xuyên giữ chánh niệm hay “như lý tác ý” để tránh các
nạn ở am Mộc “Tiên (hồi 64): Ðường Tăng mắc vào cảnh mê thơ, rượu và
tình. Bấy giờ, khi Tôn Hành Giả xuất hiện kịp thời thì ma cảnh liền tan
biến, Ðường Tăng ra khỏi sự đắm trước nội thọ và ngoại thọ.


Về Trư bát Giới (Trư Ngộ Năng)

* Theo Phật giáo Bắc và Nam truyền, thiền định để chế ngự cái động của
tuệ và của tâm cần được tu tập trên căn bản phạm h ạnh. Vì thế hành
trình giải thoát cần có công phu thực hành Thánh giới uẩn, như phái
đoàn Tây du cần có mặt Trư Bát Giới (bát giới là tám giới căn bản của
người xuất gia).


* Trư Bát Giới vốn là Thiên Bồng Nguyên soái, do vì say men tiên tửu, dục ái trỗi dậy quấy
rồi Hằng Nga mà bị đày xuống hạ giới với thân mình thô lậu. Trư Bát
Giới quả là hiện thân của dục vọng, của sự buông lung thân, khẩu hành.
khi Bát Giới trở thành môn đệ của Ðường Tăng là khi đoàn Tây du thể
hiện công phu hành trì giới uẩn để chế ngự dục vọng và tẩy trừ thân,
khẩu nghiệp. Tác giả Tây Du Ký đã khéo xây dựng nhân vật Trư Bát Giới
tham ăn, tham ngủ nghĩ và nói năng thô lậu như là tập khí sinh tử còn
lại để trên con người xuất thế, tập khí này cần được tẩy rửa khỏi Tâm
giải thoát và Tuệ giải thoát.


* Tánh của Trư Bát Giới thường không hợp với Tôn Hành Giả là cũng do vì
sự có mặt của tập khí sinh tử ấy. Lúc nào Giới được tu tập cùng với Tuệ
thì công phu giải thoát ổn định, lúc nào giới rời khỏi tuệ thì công phu
giải thoát rối loạn. Hệt như những lúc Trư Bát Giới hòa thuận với Tôn
Hành Giả thì phái đoàn Tây du êm ả, những lúc Trư Bát Giới nghịch ý Tôn
Hành Giả thì phái đoàn Tây du lâm nạn lớn.


* Nhưng Trư Bát Giới cũng lập được nhiều công trên đường thỉnh Kinh.
Ðây là ý nghĩa Bồ Tát Quán Thế Âm đặt pháp danh Ngộ Năng cho Bát Giới.
Khi mà dục vọng hướng về giải thoát, thì dục vọng trở thành một sức
mạnh giải thoát cần thiết cho hành giả.

* Những đoạn đường tu để chiến thắng dục vọng là những đoạn đường dục
ái, hữu ái và vô hữu ái mà hành giả phải vượt qua. Khi Trư Bát Giới
theo phò Ðường Tăng là khi dục vọng chuyển thành giải thoát mà khởi đầu
là bỏ dục ái (Trư Bát Giới rời khỏi nhà nhạc gia Cao Lão) để tiến đến
cắt lìa dục ái, hữu ái và vô hữu ái. Tại đây, hình ảnh của Trư Bát Giới
là hình ảnh ái nghiệp còn tồn đọng (tùy miên) trong tâm thức Ðường Tăng
hay trong tâm thức của một hành giả trên đường về giải thoát.


Ngô Thừa Ân xây dựng vai trò Trư Bát Giới là nói lên rằng, theo Phật
giáo, khi có trí tuệ Vô ngã (chánh kiến và chánh tư duy) và bi nguyện
giải thoát độ sinh, hành giả cần phải tu tập Giới uẩn, Ðịnh uẩn và Tuệ
uẩn cho đến thời điểm giải thoát sau cùng, tan hết tập khí sinh tử (trừ
hết các sanh ý).


Về Sa Ngộ Tịnh

* Vai trò của giới là chế ngự cái loạn động của thân hành và khẩu hành;
riêng cái loạn động của tâm, trí thì phải cần đến công phu thiền định.
Vì thế, phái đoàn Tây du cần kết nạp thêm nhân vật Sa Ngộ Tịnh (Tịnh có
nghĩa là định tâm). Ngộ Tịnh là biểu tượng của công phu tu tập Thánh
định uẩn. Vì thế, nhân vật Ngộ Tịnh trầm lặng, chuyên chú, cần mẫn và
ổn định suốt cuộc hành trình Tây du.


* Nhân dịp tập Giới, hành giả mới có tâm định nên tác giả Tây Du Ký đã kết nạp Ngộ Tịnh sau Ngộ Năng và làm sư đệ Ngộ Năng.


* Sa Ngộ Tịnh vố là Quyển Liêm đại tướng ở nhà trời, do vì chếch choáng
rượu trời, đánh mất chánh niệm, làm đổ ly ngọc mà bị đày xuống trần
gian (dục giới). Khi đi theo Ðường Tăng là khi Ngộ Tịnh thiết lập lại
chánh niệm tỉnh giác, hành trì định uẩn.


* Ðịnh uẩn gắn liền với Tuệ uẩn, theo Phật giáo, không có định thì
không có tuệ, không có có tuệ thì không có định. Do vậy, Ngô Thừa Ân đã
vẽ nên một tình huynh đệ thắm thiết giữa Ngộ Không và Ngộ Tịnh. Sa Ngộ
Tịnh là hình ảnh biểu hiện trạng thái tâm lý ổn định của hành giả trên
đường về giải thoát, tạo thêm sự sáng suốt của trí tuệ và tâm thức như
có lần Ngộ Tịnh đã mách nước cho Ngộ Không loại trừ Ðường Tăng giả.



Về Tiểu Long Mã


* Tiểu Long Mã là con Tây Hải Ngao Nhuận (giữa Trời và Ðất), do vì khởi
niệm nghịch ý cha, châm lửa đốt ngọc minh châu trên điện, bị thiên đình
xử tội chết, sau nhờ Bồ Tát Quán Thế Âm cứu vớt khỏi tội chờ ngày phò
tá Ðường Tăng sang Tây Trúc
.

* Ðây
là một nhân vật ẩn kín của phái đoàn Tây du mà nếu thiếu sự chú tâm,
chúng ta sản xuất không phát h iện ra. Khi Tiểu Long Mã lên đường đi
Tây du là khi hiếu tâm bắt đầu được tu tập cho đến khi thành bi tâm và
giải thoát tâm. Cấu trúc thêm nhân vật Tiểu Long Mã vào phái đoàn Tây
du là Ngô Thừa Ân muốn giới thiệu công phu tu tập Giới, Ðịnh, Tuệ được
thực hiện trên căn bản hiếu tâm, như giáo lý Phật giáo từng dạy: “Tâm
hiếu là tam tu, hạnh hiếu là hạnh tu” và Ðiều thiện lớn nhất là chí
hiếu, điều ác cùng cực là bất hiếu”.
[/size]
Với Phật giáo, đại bi tâm chỉ là sự phát triển rộng, sâu của hiếu tâm,
vì thế Tiểu Long Mã là con người cưỡi của Ðường Tăng cho đến Lôi Âm tự.

* Qua nhân vật thứ năm này, Ngô Thừa Ân đã nói lên được sự đề cao hiếu
đạo của Phật giáo, và sự quan tâm của Phật giáo đến việc xây dựng một
nhân cách đạo đức cho một xã hội tốt đẹp cho con người. Tại đây, chúng
ta cũng thấy rằng cuộc đời đang cần đến Phật giáo như Tiểu Long Mã cần
đến bàn tay cứu độ của Bồ Tát Quán Thế Âm.
hiepsi
hiepsi
Cấp 4
Cấp 4

Posts : 138
Điểm : 16999
Được cảm ơn : 7
Join date : 28/03/2009
Age : 38
Location : TP. HỒ CHÍ MINH

Về Đầu Trang Go down

Về Đầu Trang

- Similar topics

 
Permissions in this forum:
Bạn không có quyền trả lời bài viết